Nguồn gốc, Ý nghĩa ngày quốc khánh 2/9 Việt Nam nên biết

Xúc động, thiêng liêng chính là những cảm xúc sẽ “bùng” lên trong trái tim của mỗi người Việt Nam khi nhắc tới ngày Quốc khánh 2/9. Vậy bạn có biết ý nghĩa ngày Quốc khánh 2/9 Việt Nam là gì không? Tham khảo bài viết sau của chúng tôi để rõ hơn về vấn đề này nhé!

Nguồn gốc của ngày Quốc khánh

Ngày 25/8, sau khi Hà Nội và một số địa phương khởi nghĩa thắng lợi, chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu về Hà Nội. Người được Trung ương Đảng đón về tại căn gác 2 nhà số 48 phố Hàng Ngang để tiếp tục chỉ đạo phong trào trực tiếp. Trong cuộc họp cùng Thường vụ Trung ương Đảng do Hồ chủ tịch làm chủ tọa đã bàn về kế hoạch đối ngoại, đối nội và thực hiện khẩn trương lễ ra mắt chính phủ Việt Nam lâm thời. 

Hàng chục vạn người từ sáng sớm 2/9/1945 đã áo quần tươi đỏ, cờ hoa khoe sáng, hàng ngũ chỉnh tề cùng nhau dồn về quảng trường Ba Đình. Kèm theo đó là vô số các biểu ngữ chữ màu vàng nổi bật trên nền đỏ được viết bằng rất nhiều thứ tiếng khác nhau như: Nga, Hoa, Pháp, Anh, Việt,… chăng đầy mọi nẻo đường. Tất cả mọi ý chí của quân và dân ta đã được thể hiện qua những dòng biểu ngữ như: “ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Độc lập hay là chết”, “Nước Việt Nam của người Việt Nam”… 

Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945

Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945

Giữa quảng trường Ba Đình, một lễ đài bằng gỗ đơn sơ được dựng lên. Phía trước lễ đài chính hàng hàng ngũ lực lượng giải phóng quân, tự vệ vũ trang xếp hàng thẳng tắp, quân phục nghiêm trang. Đây chính là những chiến sĩ anh dũng tham gia vào các cuộc chiến đấu ở Vũ Nhai, Bắc Sơn và lập nên nhiều nhiều công vang dội như: Phai Khắt, Nà Ngần – Lực lượng vừa sát cánh cùng quần chúng nhân dân vùng dậy giành độc lập từ chính quyền, giờ đây lại tiếp tục sự nghiệp bảo vệ nền độc lập mới của dân tộc. 

Bên cạnh các lực lượng vũ trang chính là hơn 50 vạn người dân Việt Nam ở mọi tầng lớp háo hức chờ đón giờ khắc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh. Cùng trong giờ phút ấy, tại nhiều thành phố lớn của nước ta như: Sài Gòn, Huế,… cùng đã diễn ra nhiều cuộc mít tinh lớn hướng về Hà Nội trong sự chờ đợi, hồi hộp. 

Tham khảo thêm :

Đúng 14 giờ cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Chính phủ lâm thời bước ra lễ đài. Hòa cùng không khí chính là bản nhạc hùng tráng – Tiến quân ca được vang lên khi quốc kỳ đỏ thắm được kéo lên từ từ. Hàng vạn người lúc này cùng nhau hướng mắt về lá cờ Tổ quốc, tay giơ ngang vai kính chào với một ý chí sắt đá và lòng quyết tâm cao. 

Sau giây phút trang trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bước lên và đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” do chính Người soạn thảo. Đây chính là văn kiện tuyên bố trịnh trọng với tất cả mọi quốc gia trên thế giới về sự ra đời của một Nhà nước mới – Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày nay được thay đổi thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). 

Theo mục 4, điều 13, chương 1 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945”.

Ý nghĩa ngày quốc khánh 2/9 Việt Nam từ trước đến nay

Ngày Quốc khánh Việt Nam chính là ngày 2/9. Đây chính là ngày lễ lớn diễn ra hàng năm của cả dân tộc để kỷ niệm ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay đổi thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được sinh ra cũng như tưởng nhớ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. 

Trải qua hơn 75 năm từ thời điểm được khai sinh ra tới nay, đất nước Việt Nam đã và đang không ngừng cố gắng, nỗ lực để vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu một cách mạnh mẽ. Đặc biệt, Nhà nước đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn sau hơn 30 thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Việt Nam còn được xem là biểu tượng của tinh thần chiến thắng đói nghèo, sự ổn định xã hội, đề cao nhân nghĩa trong thế kỷ XXI và được bạn bè quốc tế nể trọng, mến phục. 

Bản tuyên ngôn độc lập 1945 là văn kiện quan trọng đánh dấu quyền con người và quyền dân tộc luôn có sự gắn bó với nhau một cách chặt chẽ

Bản Tuyên ngôn độc lập 1945 chính là một văn kiện mang giá trị lịch sử cũng như ý nghĩa thời đại vô cùng to lớn

Những thành tựu to lớn ấy còn cho thấy sự trưởng thành của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự dẫn dắt về mọi mắt của Nhà nước và Đảng. Đó là cả một quá trình hy sinh, phấn đấu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc trong suốt hơn 75 năm qua mà không có gì có thể sánh được. Hiện nay, trên trường quốc tế, Việt Nam đã trở thành quốc gia có được sự uy tín và lớn mạnh hơn rất nhiều. 

Vào ngày kỷ niệm Quốc khánh, mỗi người dân Việt Nam dù là sinh sống xa Tổ quốc hay ngay trong lòng đất mẹ cùng đều có những cảm xúc thiêng liêng khó tả “bùng” lên trong mỗi trái tim khi nhớ tới không khí náo nức, khí thế sục sôi, hào hùng của những ngày đầu cách mạng. Đồng thời nhớ tới giọng nói ấm áp của chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình ngày hôm ấy khi khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 

Vậy nên, có thể nói rằng, Quốc khánh chính là dịp để người dân Việt Nam dù đang sinh sống ở trong hay ngoài nước cùng nhau hướng về Tổ quốc. Tưởng nhớ và thể hiện sự biết ơn sâu sắc và tưởng nhớ đối với chủ tịch Hồ Chính Minh, những người anh hùng đã hy sinh vì bảo vệ độc lập dân tộc. Đồng thời, đây cũng chính là thời điểm để những thế hệ sau nhìn lại chặng đường lịch sử đầy hào hùng và gian khổ cả ông cha ta mà cố gắng phấn đấu, trau dồi bản thân để cống hiến cho dân tộc Việt Nam trong tương lai. 

Với tầm vóc và ý nghĩa cao cả ấy, ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9 đã trở thành kỳ nghỉ lễ quan trọng. Đặc biệt, vào dịp này, rất nhiều hoạt động giải trí, nghệ thuật được diễn ra để chào mừng và thu hút được đông đảo bạn bè quốc tế theo dõi và biết tới nhiều hơn. 

Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn độc lập 1945

Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội đã đọc bản bản Tuyên ngôn độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nay đổi lại thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể nói rằng bản Tuyên ngôn độc lập 1945 chính là một văn kiện mang giá trị lịch sử cũng như ý nghĩa thời đại vô cùng to lớn. Cụ thể như sau: 

Nội dung bản Tuyên ngôn độc lập 1945

Bản Tuyên ngôn độc lập 1945 do chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo về nội dung gồm có 3 phần chính là:

  • Phần 1: Cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn.
  • Phần 2: Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn.
  • Phần 3: Lời tuyên bố độc lập.

Ngày quốc khánh Việt Nam chính là dịp để người dân Việt Nam dù đang sinh sống ở trong hay ngoài nước cùng nhau hướng về Tổ quốc

Ngày quốc khánh Việt Nam chính là dịp để người dân Việt Nam dù đang sinh sống ở trong hay ngoài nước cùng nhau hướng về Tổ quốc

Sau đây là toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn độc lập 1945 mà bạn nên biết:

Hỡi đồng bào cả nước,

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

 

Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn độc lập 1945

Tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo chính là bản tuyên ngôn thứ 3 của dân tộc Việt Nam, sau “Nam quốc sơn hà” thời Lý Thường Kiệt và “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bản Tuyên ngôn độc lập thời hiện đại này chính là một dấu mốc vô cùng quan trọng đối với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đánh dấu sự chấm dứt hoàn toàn sự thống trị của đế chế phát xít, thực dân xâm lược như: Thực dân Pháp (kéo dài 87 năm từ 1858 – 1945) và phát xít Nhật (kéo dài 5 năm tại Đông Bắc Á từ 1940 – 1945), cũng như kết thúc chế độ quân chủ phong kiến ở nước ta. 

Tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo chính là bản tuyên ngôn thứ 3 của dân tộc Việt Nam

Tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo chính là bản tuyên ngôn thứ 3 của dân tộc Việt Nam

Bên cạnh đó, bản tuyên ngôn độc lập 1945 còn văn bản mang tính chất pháp lý khẳng định việc thiết lập Việt Nam là Nhà nước pháp quyền hoạt động với mục tiêu hướng tới sự hạnh phúc, tự do và độc lập. Đồng thời giúp khơi nguồn sáng tạo cũng như là kim chỉ nam cho con đường cách mạng xây dựng Nhà nước vì dân, do dân và của dân. Sau đây là những giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn độc lập 1945 mà bạn nên biết:

Khẳng định sự gắn bó chặt chẽ giữa quyền con người và quyền dân tộc

Bản tuyên ngôn độc lập 1945 ra đời đã trở thành văn kiện quan trọng đánh dấu quyền con người và quyền dân tộc luôn luôn có sự gắn bó với nhau một cách chặt chẽ bằng dẫn chứng là bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” và Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc

Hồ chủ tịch đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng với mục đích vô cùng sâu sắc. Cụ thể là sau khi cuộc cách mạng Pháp giành thắng lợi, bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng được ra đời. Còn bản tuyên ngôn Độc lập của Mỹ ra đời sau khi cường quốc này giành độc lập thành công. Với lời lẽ đanh thép, hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới này chính là kết quả của sự đấu tranh giành thắng lợi và đã đưa ra những chân lý đúng đắn mang tính chất tiên phong và ảnh hưởng tới nhiều quốc gia trên thế giới. 

Bản tuyên ngôn độc lập 1945

Bản tuyên ngôn độc lập 1945 là văn kiện quan trọng đánh dấu quyền con người và quyền dân tộc luôn có sự gắn bó với nhau một cách chặt chẽ

Tuy nhiên, hai bản tuyên ngôn này cũng chỉ đề cập tới quyền con người một cách đơn thuần như sự tất yếu của tự nhiên thì Hồ chủ tịch với sự mẫn tiệp trong trí tuệ của bản thân đã phát triển nên mệnh đề về quyền độc lập không thể phủ nhận của mọi dân tộc: “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn dắt một cách chi tiết và logic từ khả niệm con người tới dân tộc một cách đầy thuyết phục và tổng quát. Đồng thời, khẳng định mối liên hệ tác động biện chứng qua lại giữa quyền con người và quyền dân tộc. Theo đó, điều kiện tiên quyết để quyền con người được đảm bảo chính là sự độc lập dân tộc. Ngược lại, quyền con người được thực hiện tốt cũng chính là ý nghĩa thật sự cũng như giá trị cao cả của độc lập dân tộc. 

Tuyên bố sự độc lập của nước Việt Nam

Với sự đanh thép trong lời lẽ, trước khi đưa ra sự tuyên bố, Hồ Chủ tịch đã đưa ra những dẫn chứng vạch trần sự phản bội, dối trá của thực dân Pháp như: “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.

Bên cạnh đó, Người cũng ngắn gọn liệt kê một cách đầy đủ những tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong 80 năm đô hộ tại đất nước ta như: về kinh tế, “chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. chúng cướp không hầm mỏ, ruộng đất, nguyên liệu…”, về chính trị, “chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào…”. Không chỉ vậy, người còn khẳng định sự đoàn kết sức mạnh của toàn dân đã “nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. 

Bản tuyên ngôn độc lập 1945 là văn bản mang tính chất pháp lý khẳng định việc thiết lập Việt Nam là Nhà nước pháp quyền

Bản tuyên ngôn độc lập 1945 là văn bản mang tính chất pháp lý khẳng định việc thiết lập Việt Nam là Nhà nước pháp quyền

Tiếp theo, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt cho Chính phủ Việt Nam lâm thời tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”, đồng thời khẳng định tin tưởng “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Ngoài ra, Người còn nêu cao sự kiên cường, bất khuất cùng truyền thống anh hùng của dân tộc ta một cách tự hào và khẳng định: “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. 

Ý nghĩa thời đại to lớn

Bản Tuyên ngôn độc lập 1945 chính là văn kiện quan trọng không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây còn là kết quả của những giá trị truyền thống hào hùng kết hợp với ý chí độc lập dân tộc. Đồng thời, thể hiện rằng cách mạng Việt Nam chính là bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới và có sự mệnh vĩ đại trong công cuộc giải phóng nhân loại và dân tộc. 

Bên cạnh đó, bản Tuyên ngôn độc lập 1945 còn cho thấy rằng Hồ chủ tịch là người có tầm nhìn xa, có những dự báo chuẩn xác thiên tài về sự phát triển của lịch sử cách mạng trong tương lai cũng như trong quá trình hội nhập phong trào cách mạng sâu rộng của thế giới. 

ngày Quốc khánh 2/9

Xúc động, thiêng liêng chính là những cảm xúc sẽ “bùng” lên trong trái tim của mỗi người Việt Nam khi nhắc tới ngày Quốc khánh 2/9

Dù đã trải qua hơn 75 năm kể từ thời điểm Hồ chủ tịch đọc Tuyên ngôn độc lập năm 1945, những tư tưởng của người vẫn luôn là sức mạnh to lớn để dân tộc Việt Nam chung sức, đồng lòng vượt qua thách thức, khó khăn để thực hiện lời tuyên thệ thiêng liêng vào ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Cách mạng Việt Nam dựa vào tinh thần ấy cùng sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giành được những thành tựu vô cùng to lớn trong công cuộc thống nhất đất nước cũng như đổi mới đất nước. Còn đối với mỗi người con của dân tộc Việt Nam dù ở thời đại nào thì bản Tuyên ngôn độc lập vẫn luôn sống mãi trong tiềm thức không chỉ bởi giá trị pháp lý, giá trị lịch sử mà còn bởi vì những giá trị mang tính nhân căn cao cả về quyền dân tộc cũng như quyền con người. 

Lời kết

Ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9 chính là mốc son đánh dấu chiến tích vẻ vang của dân tộc, khẳng định sức mạnh đoàn kết vượt qua khó khăn, thách thức của quân và nhân dân ta. Đồng thời đây cũng chính là thời điểm để những thế hệ sau nhìn lại chặng đường lịch sử đầy hào hùng và gian khổ cả ông cha ta mà cố gắng phấn đấu, trau dồi bản thân để cống hiến cho dân tộc Việt Nam trong tương lai. 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *